Website bán hàng

Phân tích mô bệnh học bệnh phân trắng

tôm thẻ chân trắng
Những hiểu biết sâu sắc về mô bệnh học là tiền đề để phòng trị bệnh phân trắng hiệu quả.
 

Khi các chuỗi phân trắng xuất hiện trong ao, đó là dấu hiệu chính của Hội chứng phân trắng (WFS). Hội chứng này đã gây thiệt hại kinh tế nghiêm trọng cho những trại nuôi thâm canh, đặc biệt là khi nhiệt độ nước cao bất thường. Triệu chứng thường xuất hiện trong các ao nuôi tôm sú và tôm thẻ chân trắng ở giai đoạn từ 50-70 ngày tuổi (hoặc 7-12gr) ở tất cả các độ mặn khác nhau.

Một số nghiên cứu trước đây chứng minh ký sinh trùng Enterocytozoon hepatopenaei (EHP) và vi khuẩn Vibrio spp được xem là 2 trong số nhiều nguyên nhân gây ra hội chứng này. Trong đó, EHP làm chậm đi sự phát triển của tôm, mặc dù EHP và cả bào tử của chúng đều được tìm thấy nhiều khi dấu hiệu phân trắng xuất hiện, nhưng vẫn không phải là nguyên nhân chính gây ra hội chứng. Bên cạnh đó, lượng Vibrio spp cao sẽ đẩy nhanh sự tiến triển của phân trắng, là nguyên nhân cơ hội nhưng vẫn chưa xác định được nguyên nhân chính của bệnh phân trắng.

Dấu hiệu bên ngoài dễ thấy nhất của hội chứng là ruột tôm bị “nhuộm” trắng và đứt khúc. Các kết quả dưới đây chỉ ra những thay đổi của mô bệnh học khi bệnh tiến triển theo những giai đoạn khác nhau. Cùng với đó là sự thay đổi của thành phần vi khuẩn chiếm ưu thế và sự tương tác của chúng trong đường ruột và gan tụy. Phân trắng là bệnh gây đau đầu nhất cho những hộ nuôi khu vực châu Á. Theo quan sát lâm sàng và mô học bệnh được chia làm 3 giai đoạn theo những tiến triển của bệnh:

Giai đoạn 1: Bề ngoài tôm bệnh phân trắng như tôm khỏe mạnh, gan tụy hơi nâu, mềm, mọng nước nhưng kích thước vẫn bình thường; dạ dày đen và chứa nhiều thức ăn, phần giữa gan tụy bị bao phủ bởi một lớp màng trắng.

Giai đoạn 2: Dạ dày trống rỗng, ruột chứa đầy phân màu trắng có thể nhìn thấy từ bên ngoài, tế bào biểu mô ruột chứa nhiều sắc tố màu nâu khác thường. 

Giai đoạn 3: Gan tụy teo nhỏ, có màu nâu sẫm, mềm hơn giai đoạn 2, bị xâm nhập bởi nhiều tế bào huyết sắc tố. Dịch lỏng nhiều trong gan tụy có thể do nước thải từ không bào của tế bào B, gan tụy teo nhỏ và các thành phần được cắt như thạch mềm. 

Kiểm tra sâu hơn về mô bệnh học cho thấy biểu mô ống gan tụy tách dần ra khỏi các lớp biểu mô. Giai đoạn 1, ống gan tụy vẫn chứa nhiều tế bào B (tế bào tiết), R (tế bào dự trữ) và F (tế bào tạo khung biểu mô). Đến giai đoạn 2, biểu mô của ống nhỏ và lòng mạch bắt đầu phình ra, độ dày của biểu mô này giảm dần. Giai đoạn 3, các ống gan tụy đều xẹp, không còn nhiều tế bào B, F và R tồn tại trong các lớp biểu mô mỏng, huyết cầu phát tán rộng, lớp vi nhung mao trong gan tụy biến mất.

EHP không phải là tác nhân chính gây ra bệnh phân trắng trên tôm vì ký sinh trùng này vẫn tìm thấy ở tôm khỏe. Ngoài ra phải kể đến việc phân trắng ít có liên hệ đến bệnh hoại tử gan tụy cấp tính do tìm thấy chủng vibrio không chứa gen mang độc tố gây AHPND. Cộng thêm kết quả phân tích mô bệnh học của AHPND là gan tụy bong tróc, nhưng khi nhiễm phân trắng thì gan tụy teo nhỏ. V. sinaloensis và  V. parahaemolyticus được xác định là 2 mầm bệnh xuất hiện nhiều nhất của hội chứng phân trắng trên tôm, nhưng lại không là nguyên nhân chính làm xuất hiện những dải phân trắng. Theo đó, có thể khẳng định rằng bệnh phân trắng trên tôm không phải chỉ do một loại vibrio gây ra.

Khi kiểm khuẩn trong gan tụy và ruột tôm bị bệnh phân trắng cho thấy V. sinaloensis gây ra những triệu chứng nặng hơn cho gan tụy tôm so với V. parahaemolyticus. Mật độ vi khuẩn trong gan tụy tăng cao dần từ  19.4 lên tới 76.7% từ giai đoạn 1 đến giai đoạn 3, kéo tình trạng sức khỏe tồi tệ ở tôm. Có thể kết luận mật độ vibrio sp càng cao lại càng làm trầm trọng thêm mức độ nhiễm bệnh phân trắng trên tôm thẻ.

Ngoài ra có một sự khác biệt về cấu trúc của hệ vi sinh vật khi tôm bị nhiễm phân trắng, chủng Vibrio ngày càng trở nên phong phú và chiếm ưu thế trong cộng đồng. Do vậy Vibrio spp cũng được coi là sinh vật chỉ thị cho hội chứng phân trắng. Vì vi khuẩn sẽ làm trầm trọng hơn các triệu chứng của phân trắng nên việc diệt khuẩn khử trùng trước và trong khi thả nuôi là rất quan trọng. Và quan tâm đến chất lượng nước cũng là một trong số những cách phòng bệnh phân trắng hữu hiệu nhất.

Insights into the histopathology and microbiome of Pacific white shrimp, Penaeus vannamei, suffering from white feces syndrome by Hailiang Wang, Xiaoyuan Wan, Guosi Xie, Xuan Dong, Xiuhua Wang, Jie Huang.

Hà Tử/tapbac